Sơ lược bối cảnh trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
Thập kỷ vừa qua đã chứng kiến sự gia tăng rõ rệt nhu cầu các doanh nghiệp phải minh bạch về hiệu quả hoạt động môi trường, xã hội và quản trị (ESG) của họ, bao gồm cả những đóng góp của họ cho nền kinh tế địa phương. Ở Việt Nam, khuôn khổ liên quan đến các vấn đề môi trường, xã hội và phát triển bền vững khác còn khá mới, đặc biệt đối với các doanh nghiệp.
Việc tiếp cận thông tin về các tiêu chuẩn môi trường, xã hội và các biện pháp thực hành tốt nhất về phát triển bền vững đã từng bị hạn chế do thiếu hướng dẫn và thực tiễn liên quan đến các hoạt động ESG. Thông tin ESG quan trọng về các công ty được đầu tư như phát triển cộng đồng, quản lý chất thải, sử dụng nước hiệu quả, lương thưởng và phúc lợi cho nhân viên, sự đa dạng của lực lượng lao động và sự tồn tại của các ủy ban độc lập vẫn còn thiếu, ngay cả đối với các công ty đại chúng.
Trong bối cảnh đó, cả thế giới đều hướng về KTTH. Đây được xem là cách tiếp cận phù hợp, thực tiễn để ứng phó với thách thức về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường (Nhĩ Anh, 2023). Và việc thực hiện KTTH thông qua tiếp cận ESG như là một phương pháp tất yếu mà các DN cần quan tâm. Với bộ 3 tiêu chuẩn, ESG sẽ giúp DN có những chiến lược, định hướng, phòng ngừa và quản trị rủi ro môi trường, xã hội và quản trị, giải quyết được các vấn đề toàn cầu và thúc đẩy phát triển bền vững (Hương Loan, 2023).
Việc tập trung vào khía cạnh môi trường càng được minh chứng rõ ràng hơn, khi ở doanh nghiệp toàn cầu như Apple, điện là phần lớn nhất trong dấu chân carbon của hãng. Vì lẽ đó, công ty đã kêu gọi các nhà cung cấp sử dụng điện sạch. Đến nay thì đã có 320 nhà cung cấp chiếm 95% chi phí sản xuất của Apple thực hiện việc chuyển đổi, giúp mang lại 16.5 GW năng lượng tái tạo cho chuỗi cung ứng Apple hiện nay, và giúp giảm 18.5 triệu tấn CO2 năm 2023.
Trên toàn cầu, nhiều doanh nghiệp đã và đang thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường trong khuôn khổ ESG như Unilever, một trong những tập đoàn tiêu dùng hàng đầu thế giới, đã cam kết cắt giảm một nửa lượng khí thải carbon trong chuỗi cung ứng của mình vào năm 2030 và đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2039. Để đạt được mục tiêu này, Unilever đã triển khai một loạt các biện pháp bảo vệ môi trường, bao gồm:
Năng lượng tái tạo: Unilever chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo tại các cơ sở sản xuất của mình trên toàn cầu. Đến năm 2020, 100% điện năng sử dụng tại các cơ sở của Unilever trên toàn thế giới đã được cung cấp từ các nguồn tái tạo.
Giảm thiểu nhựa: Công ty cam kết giảm sử dụng nhựa nguyên sinh và tăng cường tái chế, với mục tiêu tất cả các bao bì nhựa của họ sẽ có thể tái chế, tái sử dụng hoặc phân hủy hoàn toàn vào năm 2025.
Bảo vệ nguồn nước: Unilever đang thực hiện các sáng kiến bảo vệ và tái tạo nguồn nước tại các khu vực khan hiếm nước, đồng thời phát triển các sản phẩm tiết kiệm nước.
Theo báo cáo về mức độ sẵn sàng ESG tại Việt Nam (PwC Việt Nam, 2022) [12] thực hiện khảo sát 234 đại diện doanh nghiệp cho thấy, mặc dù 80% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã cam kết về nội dung hoặc kế hoạch thực hiện ESG trong 2-4 năm tới. Tuy nhiên, có tới 71% doanh nghiệp vẫn chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về số liệu cần thiết để báo cáo; 70% không hoặc hiếm khi tiết lộ báo cáo ESG cho thế giới bên ngoài; 64% doanh nghiệp chưa được đối tác bên ngoài xác nhận mức độ công bố thông tin ESG. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động chuẩn bị kiến thức, kỹ năng, tài chính để sẵn sàng cho việc thực hiện các tiêu chuẩn ESG.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ESG Ở VIỆT NAM
Cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26
Tại Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26), Việt Nam đã để lại ấn tượng cho cộng đồng quốc tế, mở ra nhiều cơ hội về tăng trưởng và phát triển KTTH. Các cam kết về việc ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam như sau (IUCN, 2022):
Giảm phát thải methane toàn cầu: Cam kết hợp tác để cùng nhau giảm lượng khí thải Methane toàn cầu ở tất cả các lĩnh vực, ít nhất là 30% so với năm 2020, đặc biệt, tập trung vào các lĩnh vực năng lượng, chất thải và nông nghiệp. Việt Nam tìm cách giảm khí thải nông nghiệp dựa vào công nghệ, trong đó, cần đặc biệt quan tâm đến sản xuất lúa gạo.
Chấm dứt nạn phá rừng vào năm 2030: Tại COP26, 141 quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã ký Tuyên bố của Lãnh đạo Glasgow về Rừng và Sử dụng đất. Tuyên bố đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn rừng và các hệ sinh thái trên cạn khác, cam kết ngăn chặn và đảo ngược tình trạng mất rừng và suy thoái đất vào năm 2030.
Đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Netzero) vào năm 2050: Việt Nam cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 bằng cách sử dụng đầu vào và tài nguyên một cách hiệu quả, tăng tốc liên minh tài chính và công nghệ.
Loại bỏ dần nhiệt điện than vào năm 2040: Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Điền đã ký Tuyên bố chuyển đổi từ than sang năng lượng sạch toàn cầu, cam kết thực hiện chuyển đổi một cách công bằng và toàn diện, nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất điện sạch, chuyển đổi khỏi sản xuất điện than và ngừng cấp giấy phép mới cho sản xuất điện than.
Giảm phát thải khí nhà kính: Việt Nam là một trong 12 quốc gia hoàn thành cập nhật mức Đóng góp quốc gia tự quyết định (Nationally Determined Contributions – NDC) vào ngày 11/9/2020, cam kết giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính với nguồn lực trong nước và 27% với sự hỗ trợ quốc tế.
Quy định, chính sách của Chính phủ đối với ESG
Trong hành trình ESG, Việt Nam đã đưa ra nhiều quy định, chính sách, được tổng hợp (bao gồm nhưng không đầy đủ) theo Bảng 2.
Bảng : Tổng hợp các quy định, chính sách của Chính phủ Việt Nam về ESG
Tại Việt Nam, tiêu biểu có thể kể đến Vinamilk, một trong những doanh nghiệp hàng đầu trong ngành sữa, đã triển khai nhiều chiến lược bảo vệ môi trường, tập trung vào yếu tố Môi trường (E) trong ESG. Những nỗ lực này không chỉ giúp Vinamilk phát triển bền vững mà còn góp phần bảo vệ môi trường và nâng cao uy tín thương hiệu.
Vinamilk đã thực hiện các biện pháp sử dụng năng lượng tái tạo trong hoạt động sản xuất của mình. Đặc biệt, việc lắp đặt các hệ thống pin năng lượng mặt trời tại các trang trại và nhà máy đã cung cấp nguồn năng lượng sạch, đồng thời giảm chi phí vận hành. Hệ thống này đã giúp giảm đáng kể lượng khí thải CO2 ra môi trường. Cùng với đó, Vinamilk áp dụng các công nghệ hiện đại để tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng trong quá trình sản xuất, bao gồm các hệ thống quản lý năng lượng tiên tiến và thiết bị tiết kiệm năng lượng.
Như nhà máy NGK Vinamilk tại Bình Dương là dự án đã đạt trung hòa carbon lượng khí thải theo phạm vi phát thải 1 và 2 vào năm 2022. Trong đó, dự án điện mặt trời mái nhà tại nhà máy với công suất 1MWp do Vũ Phong Energy Group triển khai đã góp phần giảm phát thải.
Đồng thời, các cơ chế xanh hóa từ các thị trường quốc tế như Liên Minh Châu Âu và Mỹ cũng như chính sách của các tập đoàn lớn đang tạo ra những cơ hội và thách thức mới đối với các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam trong việc thực hiện khía cạnh môi trường (E) trong quản trị bền vững ESG.
Ví dụ, Liên Minh Châu Âu đã áp dụng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về tiêu thụ năng lượng và khí thải cho các nhà cung cấp thông qua Cơ chế điều chỉnh biên giới Carbon (CBAM), và Chỉ thị Báo cáo Phát triển Bền vững của Doanh nghiệp (CSRD) yêu cầu công bố đầy đủ các hoạt động phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Nguồn vốn thị trường đổ về cho ESG
ESG dần trở thành tiêu chí quyết định khả năng thành công khi doanh nghiệp muốn tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng, các quỹ đầu tư trong nước và quốc tế. Trong năm 2020, 51 tỷ USD đã được đầu tư vào các quỹ tác động đến ESG, tăng hơn gấp đôi các khoản đầu tư khác trong vòng một năm.
Nhu cầu ngày càng tăng này đã dẫn đến sự ra đời của nhiều quỹ và sản phẩm tài chính tập trung vào ESG. Ví dụ, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã cam kết 2,1 tỷ USD cho Việt Nam để triển khai Quan hệ Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) và Cơ chế Chuyển đổi Năng lượng (ETM), các công cụ tài chính sáng tạo được thiết kế để chuyển đổi từ các nhà máy nhiệt điện than sang các nguồn năng lượng sạch hơn. Ngoài ra, Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) đã công bố các khoản đầu tư mới, bao gồm một cơ sở cho vay xanh để hỗ trợ các dự án năng lượng tái tạo ở Thái Lan, Indonesia và Việt Nam, và 3,5 nghìn tỷ VND (150 triệu USD) trái phiếu liên kết bền vững (SLBs) bằng đồng nội tệ đầu tiên của Việt Nam để tăng cường bảo tồn nước và hiệu quả năng lượng trong các tài sản ngành khách sạn.
Số liệu theo báo cáo của PwC Việt Nam
Báo cáo mới nhất của PwC về thị trường ESG cho thấy, quy mô các quỹ đầu tư ESG tăng trưởng nhanh hơn các quỹ đầu tư truyền thống trong những năm gần đây. Tổng tài sản của các quỹ ESG toàn cầu đạt 18,4 nghìn tỷ USD, chiếm 14,4% tổng tài sản đầu tư.
Ước tính tới năm 2026, tổng tài sản các Quỹ ESG toàn cầu chiếm 21,5% tổng tài sản đầu tư, đạt 33,9 nghìn tỷ USD, tăng trưởng bình quân hàng năm 12,9%, cao hơn nhiều so với mức tăng 4,3% của thị trường quỹ.
Đáng chú ý, các quỹ đầu tư ESG đang thu hút dòng tiền đầu tư mới. Chẳng hạn, tại châu Âu, dòng vốn mới vào các quỹ ESG chuyên biệt chiếm 43% tổng vốn đầu tư mới trong quý I/2023. Thậm chí trong năm 2022, các quỹ ESG tại châu Âu đón nhận dòng vốn đầu tư mới, trong khi các quỹ truyền thống bị rút ròng.
Một xu hướng tích cực đối với thị trường châu Á là việc nhận thức về đầu tư bền vững tại khu vực này gia tăng, kết hợp với cam kết mạnh mẽ từ các chính phủ để thúc đẩy phát triển bền vững và tăng trưởng kinh tế cao, ổn định.
Theo số liệu của Morningstar, 100% các chỉ số bền vững của châu Á cho thấy tỷ suất sinh lợi vượt trội và giảm thiểu rủi ro giảm giá tốt hơn trong giai đoạn 2017-2021. Đây là một trong những động lực lớn khiến dòng vốn đầu tư tích hợp ESG chảy mạnh vào khu vực này, giúp tăng trưởng dòng vốn vào các quỹ ESG tại châu Á cũng cao hơn so với mặt bằng chung toàn cầu.
Tại Việt Nam, tháng 11/2022, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) đã cấp giấy chứng nhận thành lập quỹ mở cho Quỹ đầu tư cổ phiếu United ESG Việt Nam (Quỹ UVEEF) cho CTCP Quản lý quỹ UBO Asset Management (Việt Nam). Đây là quỹ mở đầu tiên trên thị trường tài chính Việt Nam áp dụng việc đánh giá chuẩn mức ESG song song với những tiêu chuẩn phân tích nền tảng cơ bản thông thường để lựa chọn cổ phiếu đầu tư. Đến nay, đây cũng là quỹ ít ỏi “thuần” tập trung yếu tố ESG trên thị trường.
Mục tiêu của Quỹ UVEEF là đầu tư chủ yếu vào các cổ phiếu đầu ngành, có nền tảng cơ bản vững mạnh, tiềm năng tăng trưởng tốt và được xếp hạng ESG cao. Yếu tố này được đánh giá như khả năng tăng trưởng bền vững trong tương lai của doanh nghiệp.
Ngoài ra, Quỹ UVEEF còn nhắm đến việc thúc đẩy các công ty thực hành tốt các chuẩn mực ESG để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững, qua đó, làm gia tăng giá trị của các công ty này và góp phần gia tăng về mặt giá trị các khoản đầu tư của Quỹ UVEEF.
Trong tháng 6/2023, NAV của UVEEF tăng 5,5% so với tháng trước, trong khi VN-Index tăng 4,2%. Xét về hiệu suất đầu tư, UVEEF tăng trưởng 18% kể từ khi thành lập cho tới nay, tích cực hơn so với chỉ số VN-Index (tăng 14,1% trong cùng giai đoạn).
Tuy nhiên, quy mô của UVEEF còn khá khiêm tốn trên thị trường, với tài sản 66,2 tỷ đồng, so với nhiều quỹ mở khác có quy mô lên tới gần 1.000 tỷ đồng.
Tiềm năng lớn nhưng vẫn khó chọn hàng
Việt Nam là một trong những điểm đến kinh doanh và đầu tư năng động nhất châu Á, với hình ảnh là một quốc gia có định hướng rõ ràng và nỗ lực thực hiện các cam kết mạnh mẽ từ Hội nghị Biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc tại Glasgow (COP26) về thu hút đầu tư chất lượng cao hướng tới một nền kinh tế trung hoà carbon và tăng trưởng xanh.
Việt Nam đã ban hành nhiều chiến lược và kế hoạch hành động nhằm hiện thực hóa các cam kết, bao gồm: Định hướng Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam; Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020; Lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030; Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050; Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050; Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII)…
Theo đó, việc có thêm các quỹ đầu tư ESG là cần thiết, nhằm dẫn dòng vốn đầu tư xanh vào thị trường Việt Nam, góp phần đáp ứng nhu cầu cần thiết cho các mục tiêu trung hoà carbon và xây dựng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Chưa kể, các nhà đầu tư cá nhân, tổ chức có thêm lựa chọn sản phẩm quỹ đầu tư để hiện thực hoá mong muốn đầu tư có trách nhiệm, hướng tới phát triển bền vững.
Trong sự kiện do Viện Thành viên HĐQT Việt Nam (VIOD) tổ chức mới đây, TS. Nguyễn Thu Hiền, chuyên gia quản trị công ty ASEAN, Giám đốc phụ trách Ban Cố vấn chuyên môn VIOD cho biết, mức độ quan tâm đến ESG của các quỹ đầu tư ngày càng tăng, minh chứng rõ nét nhất là qua con số tài sản đang được các quỹ gắn nhãn ESG và khí hậu quản lý. Cụ thể, giá trị tài sản mà quỹ mang nhãn ESG ở toàn cầu đã tăng gấp đôi trong 2 năm qua, trong khi con số này tại châu Á là gấp bốn lần và Đông Nam Á tăng hơn hai lần.
Tuy nhiên, bản thân các quỹ gặp nhiều áp lực khi có lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư nhưng không giải ngân được vì cần tìm các doanh nghiệp đạt các chuẩn mực về ESG và chống biến đổi khí hậu. Đó vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội nếu doanh nghiệp có thể chuyển mình", bà Hiền nhận định.
Nhìn vào danh mục cổ phiếu của UVEEF có thể thấy những cái tên quen thuộc đối với thị trường, bởi đây là nhóm các doanh nghiệp lớn, chủ động thực thi ESG và ít nhiều đẩy mạnh công bố thông tin về hoạt động này. Những tên tuổi có thể kể tới như FPT, Vietcombank, Ree Corp, Dược Hậu Giang…
Top 10 cổ phiếu của UVEEF cho tới cuối tháng 6/2023.
Theo UBO Asset Management, có 3 thách thức chủ yếu khi đầu tư ESG tại Việt Nam.
Thứ nhất, thiếu nguồn lực tập trung cho ESG, khi các công ty chưa chú trọng nhiều đến đầu tư phát triển các nguồn lực về con người, dữ liệu cho ESG.
Thứ hai, công bố thông tin ESG hạn chế. Thông tin ESG công bố chưa thống nhất theo quy chuẩn giữa các công ty, quy định liên quan đến công bố thông tin ở các cấp công ty và doanh nghiệp còn hạn chế.
Thứ ba, vấn đề tẩy xanh. “Tẩy xanh” là khi doanh nghiệp công bố thông tin sai lệch để thể hiện rằng mình hành động có trách nhiệm với môi trường, cũng như thực thi các yếu tố khác của ESG. Các dữ liệu được dùng để tính chỉ số ESG có thể bị tẩy xanh, qua đó làm sai lệch thước đo chủ đạo mà các cá nhân hoặc thị trường đang sử dụng để đưa ra quyết định đầu tư ESG. Điều này gây khó khăn trong việc đánh giá các cam kết ESG của các doanh nghiệp.
Một con số mà cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cần lưu tâm, theo VIOD là việc xây dựng các uỷ ban/hội đồng đảm bảo vai trò trách nhiệm của việc giám sát rủi ro và cơ hội về phát triển bền vững. Nếu Thái Lan có tới 15% hay Philippines có 7% doanh nghiệp niêm yết đã xây dựng các ủy ban phụ trách phát triển bền vững, thì con số ở Việt Nam còn chưa đạt 1%.
Thị trường quỹ ESG tại Việt Nam có nhiều yếu tố thuận lợi cho tăng trưởng, đặc biệt là sự đồng bộ và quan tâm từ các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, để các quỹ đầu tư ESG có thể phát triển và phát huy vai trò dẫn vốn xanh, cần cả sự nhập cuộc của cộng đồng doanh nghiệp trong việc thực thi chiến lược ESG và đặt mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Nguồn vốn đổ vào thị trường ESG tại Việt Nam
Dưới đây là tổng nguồn vốn đã được cam kết và đầu tư vào các dự án liên quan đến ESG tại Việt Nam, dựa trên các thông tin đã được cung cấp:
- Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB):
Cam kết: 2,1 tỷ USD để triển khai Quan hệ Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) và Cơ chế Chuyển đổi Năng lượng (ETM).
- Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC):
Các khoản đầu tư mới bao gồm cơ sở cho vay xanh và các dự án năng lượng tái tạo ở Thái Lan, Indonesia, và Việt Nam.
- Trái phiếu liên kết bền vững (SLBs) bằng đồng nội tệ đầu tiên của Việt Nam: 3,5 nghìn tỷ VND (150 triệu USD).
- Quỹ đầu tư cổ phiếu United ESG Việt Nam (UVEEF):
Tổng tài sản: 66,2 tỷ VND (khoảng 2,8 triệu USD).
Nguồn : Tổng hợp
Tại sao hợp tác với TCI Việt Nam ? Vì chúng tôi có thể giúp công ty tiến lên trong hành trình ESG của mình.
Bất kể bạn đang ở đâu trong hành trình ESG của mình, chúng tôi luôn sẵn sàng trợ giúp. Chúng tôi mang đến mục đích, tầm nhìn và tính thực tế cho những thách thức mà bạn gặp phải - và chúng tôi hiểu bạn cần bắt đầu hành trình ESG của mình như thế nào. Chúng tôi sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm của mình để hỗ trợ bạn trên hành trình đó.
Hợp tác với TCI Việt Nam có thể giúp công ty tiến lên trong hành trình ESG
Tư vấn soạn thảo ESG/báo cáo bền vững theo các tiêu chuẩn và khuôn khổ ESG, v.d. GRI, IIRC, TCFD và SASB, thông qua đó Công ty sẽ truyền đạt kinh nghiệm về hành trình ESG tới các bên liên quan. các nhà đầu tư, hội đồng quản trị và các bên liên quan để truyền cảm hứng cho họ tham gia hành trình này.
Cung cấp sự đảm bảo độc lập về dữ liệu trong báo cáo phát triển bền vững của bạn, phù hợp với các tiêu chuẩn thị trường hàng đầu như Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI), Kiểm kê phát thải khí nhà kính nhà kính (GHG Protocol), CDP và AA1000
Hỗ trợ Quý công ty soạn thảo và nộp hồ sơ VNSI bằng cách tư vấn điền bảng câu hỏi trước khi gửi hồ sơ; Chúng tôi cũng sẽ đánh giá hiện trạng công ty bạn theo bộ tiêu chí của VNSI để cải thiện vị trí của bạn trên bảng xếp hạng.
Rà soát và tư vấn các chỉ số ESG được cổ đông tín nhiệm
Nâng cao nhận thức giữa các bên liên quan của bạn về các chủ đề ESG chính, bao gồm cả Hội đồng quản trị, những người kỳ vọng ban lãnh đạo Công ty sẽ dẫn đầu xu hướng ESG
Hãy để TCI Việt Nam hỗ trợ cho doanh nghiệp vì chúng tôi hiểu bạn cần bắt đầu một hành trình như thế nào, với đội ngũ chuyên gia nhiều năm kinh nghiệm chúng tôi tin rằng sẽ là đối tác đáng tin cậy, uy tín.
Liên hệ với chúng tôi để được tư vấn gải đáp thắc mắc
Ms. Lan Anh
Hotline: 0824 647 279
Email: anh.nguyen@tcivietnam.com
=> Hà Nội: Số 18 Tam Trinh, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
=> Đà Nẵng: 498 Bùi Trang Chước, Cẩm Lệ, Đà Nẵng.
=> Hồ Chí Minh: 8/29 Hoàng Hoa Thám, Phường 7, Bình Thạnh, Hồ Chí Minh.